Lên ngôi hoàng đế Manuel I Komnenos

Cái chết của Ioannes II Komnenos, và lễ đăng quang Manuel I Komnenos (từ bản viết tay Historia và Old French Continuation của William xứ Tyros, vẽ tại Acre, Israel, thế kỷ 13, Thư viện Quốc gia Pháp).

Manuel Komnenos là con trai thứ tư của Ioannes II KomnenosPiroska của Hungary và vì thế mà dường như chuyện ông kế vị cha là điều khó có thể xảy ra.[3] Ông ngoại ông là vua László I của Hungary. Sau những gì đã thể hiện trong cuộc chiến chống lại người Thổ Seljuk của Ioannes, vào năm 1143 Manuel đã được vua cha ưu tiên chọn làm thái tử thay vì anh trai Isaac của ông. Sau khi Ioannes mất vào ngày 8 tháng 4 năm 1143, con trai ông Manuel đã được quân đội tôn lên làm hoàng đế.[4] Tuy vậy, không có gì có thể đảm bảo cho sự kế vị này: Ngồi bên giường hấp hối của cha tại Cilicia cách xa Constantinopolis, ông nhận ra rằng mình cần phải quay trở lại kinh đô càng sớm càng tốt. Tuy vậy, ông phải ở lại coi tang cho cha và phong tục tập quán đòi hỏi ông phải mở một tu viện ngay tại chỗ đất mà cha ông qua đời. Ông nhanh chóng hạ lệnh cho viên megas domestikos Ioannes Axouch tức tốc đi trước, với lệnh bắt khẩn kẻ thù nguy hiểm tiềm tàng nhất là anh trai Isaac của ông, người đang sống trong Đại Cung điện và có thể lập tức tiếp cận kho báu và biểu chương hoàng gia. Axouch quay về kinh đô trước khi tin tức về cái chết của hoàng đế lan truyền đến đó. Ông ta nhanh chóng thu phục nhân tâm, và khi Manuel hồi kinh trong tháng 8 năm 1143, ông đã được tân thượng phụ Mikhael Kourkouas tôn lên làm vua. Ít ngày sau, khi không còn điều gì đáng ngại vì ngôi vị hoàng đế của mình đã được bảo đảm, Manuel đã hạ lệnh thả Isaac.[5] Sau đó, ông hạ lệnh phân phát cho mỗi hộ ở Constantinoplis hai miếng vàng và hiến dânh 200 cân vàng (bao gồm 200 miếng bạc hàng năm) cho Giáo hội Đông La Mã.[6]

Đế quốc mà Manuel được thừa kế từ cha ông đã trải qua nhiều thay đổi lớn kể từ khi nó được sáng lập bởi Constantinus Đại đế tám thế kỷ trước. Dưới triều đại của tiên đế Justinianus I (527–565), một phần của đế quốc Tây La Mã bao gồm Ý, Bắc Phi và miền nam Tây Ban Nha đã được phục hồi. Tuy nhiên, đế quốc bắt đầu thu nhỏ kể từ đó. Sự thay đổi rõ ràng nhất đã xảy ra trong thế kỷ thứ 7 khi quân Hồi giáo chiếm Ai Cập, Palestine và phần lớn Syria. Người Hồi giáo tiến hành tây tiến vào Bắc Phi và Tây Ban Nha — tiến vào vùng đất mà vào thời Constantinus là những tỉnh phía tây của Đế quốc La Mã. Những thế kỷ tiếp đó, các vị hoàng đế La Mã cai quản một vùng đất bao gồm phần lớn là Tiểu Á ở phía đông và vùng Balkan ở phía Tây. Đến những năm cuối thế kỷ thứ 10, Đế quốc Đông La Mã bước vào một giai đoạn đánh dấu sự suy tàn quân sự và chính trị. Phần lớn những điều này đã được khắc phục dưới triều đại của ông nội và cha của Manuel. Tuy nhiên, đế quốc mà Manuel thừa kế là một chính thể phải đối mặt với những thách thức kinh khủng. Vào cuối thế kỷ 11, người Norman ở Sicilia đã đưa Italia ra khỏi tầm kiểm soát của các hoàng đế Đông La Mã. Những người Thổ Seljuk cũng đã làm tương tự với khu vực miền trung Anatolia. Và tại Levant, một lực lượng mới đã xuất hiện - các tiểu quốc Thập tự chinh - những người mang đến cho Đế quốc Đông La Mã nhiều thách thức mới. Vào lúc này, nhiệm vụ mà hoàng đế phải đối mặt trở nên thực sự khó khăn hơn bất cứ lúc nào trong những thế kỷ trước.[7]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Manuel I Komnenos http://findarticles.com/p/articles/mi_m0422/is_n4_... http://www.geocities.com/trvalentine/orthodox/essa... http://www.intratext.com/X/ENG0832.HTM http://thelatinlibrary.com/williamtyre.html http://www.kbe.auth.gr/bkm%C2%B20a1.pdf http://www.kbe.auth.gr/bkm%C2%B20a2.pdf http://www.kbe.auth.gr/bkm%C2%B20b.pdf http://web.archive.org/web/20070202070010/http://a... http://www.deremilitari.org/resources/sources/clar... http://www.doaks.org/Crusades/CR08.pdf